18/9/11

Những tước hiệu bịp bợm của Giáo Hoàng

Vào một buối sáng tinh sương trong tháng Giêng năm 1995, một đám đông khổng lồ chưa từng thấy, khoảng trên 5 triệu người, từ khắp năm Châu đã tụ hội tại thành phố Manila (thủ đô của Philipines) để xem một buổi lễ Mi-sa ngòai trời của Giáo hoàng John Paull II. Ngoài sự háo hức cuồng tín, đám đông còn bị thôi thúc bởi óc tò mò nên họ đã chen lấn xô đẩy nhau để được nhìn thấy “vị cha chung” của họ bằng xương băng thịt. Nhiều người bị thương phải đưa vào bệnh viện cấp cứu. Chỉ có một số ít tu sĩ và giáo dân chọn lọc được phép gần Giáo hoàng mà thôi. Chung quanh giáo hoàng là một đội ngũ công an, mật vụ, cảnh sát và đủ loại nhân viên an ninh lên tới cả chục ngàn người!

Hàng triệu tín đồ đáng thương đành phải mon men đến gần các loa phóng thanh gắn rải rác khắp nơi trong thành phố để nghe giọng nói tiếng Anh pha giọng Ba Lan của giáo hoàng. Ngoài 5 triệu tín đồ có mặt tại thành phố này còn có hàng trăm triệu tín đồ trên khắp thế giới đang theo dõi buổi lệ này qua radio và truyền hình trực tiếp.

Cuộc công du của giáo hoàng tại Philippines lần này chỉ là một trong hàng trăm chuyến công du của ngài tới các nơi khác trên thế giới. Giáo hoàng tới đâu thì khung cảnh cũng tương tự như vậy. Điều đó đủ cho thấy giáo hoàng là người có ảnh hưởng chính trị lớn nhất trên hành tinh của chúng ta. Điều đáng chú ý là dù cho giáo hoàng trẻ hay già, dù mang quốc tịch Ý hay Ba Lan, dù đặc tính các nhân của giáo hoàng ra sao chăng nữa... tất cả đều không thành vấn đề.

Điều quan trọng hơn hết đã khiến cho giáo hoàng được những đám đông tín đồ cuồng nhiệt tôn sùng chỉ vì tin rằng giáo hoàng là người duy nhất trên thế gian có quyền “Đại diện Chúa Ki-tô” (Vicar of Christ) và “kế nhiệm thánh Phê-rô” (Sucessor of St. Peter). Đó là hai tước hiệu (titles) quan trọng nhất trong hơn một tá những tước hiệu của giáo hoàng.

Nhưng tất cả chỉ là những màn kịch được đạo diễn bời bọn Mafia chuyên nghiệp về tôn giáo. Tất cả những gì chúng ta thấy được chì là cái vỏ bên ngoài hào nhoáng của một giáo hội tội lỗi tự nhận là thánh thiện. Cái bề ngoài hào nhoáng đó không phải đã được tạo thành trong một sớm một chiều mà là kết quả do nhiều công trình sáng tạo của những bộ óc lưu manh siêu việt trong 17 thế kỷ qua!

Những tước hiệu “kế vị thánh Phê-rô” và “đại diện Chúa Ki-tô” của giáo hoàng do đâu mà ra và bắt đầu từ bao giờ? Những tước hiệu đó có nguồn gốc lương thiện chân chính hay chỉ là những trò gian manh bịp bợm? Vatican đã thổi phồng những tước hiệu đó nhằm mục đích gì và bọn chúng đã khai thác những tước hiệu này để gây tội ác như thế nào cho nhân loại? Bài viềt này dực trên những sự kiện lịch sử nhằm đưa ra những lời giải đáp cho những vấn đề nêu trên.


Vài nét sơ lược về Vatican:

Trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên, Ki-tô giáo chưa thành hình, chưa có giáo đô và cũng chẳng có ai tự xưng là giáo hoàng. Đến đầu thế kỷ thứ 4, tức giai đoạn đầu của thời đại hoàng đế Constantine (306-337) thì trong đế quốc La Mã có một số trung tâm Ki-tô giáo nguyên thủy (The Early Christianity) như Lyon ở xứ Gaul tức nước Pháp ngày nay, Alexandria ở Ai Cập, Anatolia ở Thỗ nhĩ kỳ, Damascus ở Syria, Jerusalem và Rome.

Tại mỗi trung tâm nói trên có những tu sĩ nổi tiếng được các tín đồ tôn xưng làm giám mục (Bishop). Ở Rome cũng vậy, các tu sĩ đứng đầu trong cộng đồng giáo dân ở Rome cũng được gọi là “giám mục thành Rome” (Bishop of Rome). Trong ba thế kỷ đầu Công nguyên, Rome được coi là giáo đô và cũng không có một giám mục nào ở Rome đuợc gọi là giáo hoàng cả !!.

Vào năm 324, hoàng đế Constantine quyết định bỏ Rome và dời đô đến Constantinople, nay là thủ đô Istambul của Thổ nhĩ kỳ. Lý do là lãnh thổ của đế quốc La Mã lúc đó trải rộng về phía động gồm có những quốc gia thuộc Bắc Phi, Trung Đông, Tiểu Á, và một phần Đông Âu. Thủ đô cũ của đế quốc đặt tại Rome trở nên nên quá xa với lãnh thổ ở phía đông, nên không còn thích hợp cho việc cai trị của đế quốc nữa. Thủ đô mới của đế quốc La Mã tại Constantinople tồn tại và phát triển trong hơn một ngàn năm (từ 324 đến 1453) với 88 đời hoàng đế từ Constantine.

Từ sau khi Rome bị các hoàng đế La Mã bỏ trống từ năm 324 thì các giám mục ở Rome bắt đầu âm mưu củng cố quyền lực bằng cách liên kết với các vua chúa của các nước Tây Âu để tách rời khỏi quyền lực của các hoàng đế La Mã tại Con stantinople. Dần dần, Constantinople không còn đủ sức kiểm sóat lãnh thổ phía Tây gồm các nước Âu châu nên đế quốc La Mã bị tách ra làm hai. Ki-tô giáo gắn liền với đế quốc nên cũng bị tách ra làm hai giáo hội. Giám mục ở Rome tự xưng là “Thượng phụ của giáo hội Tây phương” (Patriarch of The West Church) và giám mục tại Constantinople tự xưng là “Thượng phụ của giáo hội Đông phương” (Patriarch of The East Church). Hai giáo hội Đông và Tây của Ki-tô giáo vẫn cố gắng thuận thảo với nhau từ thế kỷ 4 đến năm 1054 thì tách rời hẳn. Năm 1204, Vatican tổ chức cuộc Thập tự chinh lần thứ 4 (The Fourth Crusade) tàn phá Constantinople gần thành bình địa. Constantinople trở thành thuộc địa của Vatican trong 57 năm (1204-1261).

Vatican chính thức trở thành một quốc gia độc lập do Hiệp ước Lateran được ký kết giữa hoàng đế Ý Victor Emmanuel III và giáo hoàng Pio XI năm 1929. Lãnh thổ của quốc tí hon Vatican vừa bằng một cái sân golf với khỏang 700 công dân chính thức mang quốc tịch Vatican. Giáo hoàng là quốc trưởng của quốc gia tí hon này (State Sovereign of Vatican) kiêm Tổng giám mục của nước Ý (Primate of Italy). Các tu sĩ hoặc giáo dân nhiều khi không thích dùng tước hiệu “giáo hoàng” nhưng họ tôn xưng giáo hoàng bằng những tước hiệu khác, chẳng hạn như “Đấng đáng tôn kính nhất” (The Most Reverend), “Đấng cao quý” (The Excellency), “Người đứng đầu hội thánh” (Pontifex maximus ) và đặc biệt là tước hiệu “Đầy tớ của các đầy tớ” (Servant of Servants).

Trong các buổi triều yết tại Vatican, các hồng y và giám mục thường xếp hàng để lần lượt quỳ gối hôn chân : “đầy tớ của các đầy tớ”! Peter de Rosa, cựu tu sĩ Dòng tên nhận xét: “Những người mặc áo lụa tím, sống trong lâu đài và ngự trên ngai vàng khó có thể hành xử như một đầy tớ của các đầy tớ của Chúa” (Those who dress in purple lik, live in palaces, sit on throne... it is not easy for them to act as servant of servants of God – Vicar of Christ, page 27).

Chỉ các tu sĩ cao cấp hay những nhân vật nổi tiếng mới có thể tới gần giáo hoàng. Các giáo dân cắc ké muốn đến gần giáo hoàng không phải chuyện dễ. Từ đầu thế kỷ 20, giáo hoàng được bảo vệ bởi cơ quan mật vụ Ý (Unfficio Central de Vigilanza). Cơ quan này được lệnh nổ súng vào bất cứ ai khả nghi dám mon men đến gần giáo hoàng!

Từ nhiều thế kỷ qua, mỗi năm có nhiều triệu khách hành hương từ khắp năm châu đến viếng Vatican. Đông nhất là vào sáng chủ nhật hàng tuần tại Công trường thánh Phê-rô. Đến gần 12 giờ trưa, mọi con mắt của hàng chục ngàn khách hành hương đều đổ dồn về khung cửa sổ tầng lầu 3 của Lâu đài Các Thánh Tông đồ (The Apostolic Palace). Họ chờ đón giáo hoàng xuất hiện để quơ tay ban phép lành trong vài chục giây đồng hồ! Trong giây phút nghiêm trọng đó, có nhiều giáo dân sùng tín đã không ngần ngại quì gối trên sân đá để đón nhận “ơn phúc không khí” của giáo hoàng!

Trong cái lãnh thổ tí hon chỉ bằng sân golf của Vatican chất chứa biết bao những âm mưu vĩ đại làm thay đổi lịch sử loài người. Các tín đồ sùng tín chẳng thấy gì cả, nhưng đối với những bậc thức giả thì Vatican có rất nhiều điều đáng nói. Chẳng hạn như đại văn hào Pháp Chateaubriand (1768-1848) đã viết trong tác phẩm Mémoire của ông như “Ở Rome có nhiều ngôi mộ hơn xác chết” (In Rome there are more tombs than corpses – Vicar of Christ, trang 13). Ý ông muốn nói ở Rome có nhiều ngôi mộ giả vì ở trong mộ không có xác chết. Nhất là những ngôi mộ ngụy tạo được gán cho là mộ của các thánh như Phê-rô, Phaolô chẳng hạn.

Vatican tìm đủ mọi cách để đề cao những tước hiệu: “Thừa kế của thánh Phêrô”, Đại diện Chúa Kitô”... để giáo hoàng có lý do cai trị gần một tỉ tín đồ, đứng đầu đội ngũ tu sĩ gồm có 4000 hồng y và giám mục, 400.000 linh mục và một triệu nữ tu. Những tước hiệu đó đủ tạo uy thế cho giáo hoàng thành người đứng đầu một trung tâm quyền lực khuynh đảo thế giới trong nhiều thế kỷ. Trong các buổi lễ tại đền thánh Phêrô do giáo hoàng cử hành, ca đoàn chính thức của Vatican là ca đoàn Sistine luôn luôn ca bài hát La-tinh “TU ES PETRUS” (Người là thánh Phêrô) nhằm nhắc nhở mọi người biết rằng : Giáo hoàng là thánh Phêrô tái sinh để cai trị Giáo hội Công giáo.


I .Tước hiệu “Người kế vị thánh Phêrô”

Theo bản danh sách chính thức của Giáo hội Công giáo thì Phêrô là giáo hoàng đầu tiên và John Paul II là giáo hoàng thứ 263. Theo cựu tu sĩ dòng tên Peter de Rosa, tác giả của tác phẩm lừng danh “Vicar of Christ” thì bản danh sách giáo hoang của Vatican là hoàn toàn ngụy tạo vì mãi đến cuối thế kỷ 11 - tức là vào năm 1073 – giáo hoàng Gregory VI mới ra lệnh cho toàn giáo hội Công giáo phải dành danh từ “giáo hoàng” (Pope) cho riêng một mình giám mục ở Rome mà thôi. Tất cả các giám mục không được phép tự xưng là “Pope”. Trước năm 1073, có nhiều giám mục ở nhiều nơi cũng tự xưng là giáo hoàng. Do đó, con số 263 được gán cho John Paul II là hoàn toàn vô căn cứ. (Vicar of Christ, trang 14).

Vấn đề quan trọng nhất cần được đặt ra là: Có thật sự Phêrô làm giáo hoàng đầu tiên ở Rome hay không?

Trong Kinh Thánh Tân ước (Sácch Tông đồ Công vụ) có một bức thư của Phaolồ nhắc đến tên của 29 người trong cộng đoàn nhưng không có tên Phêrô. Chẳng lẽ Phêrô là người quan trọng nhất trong cộng đoàn ở Rome mà Phaolồ bỏ qua? Sở dĩ Phaolồ không nói tới vì Phêrô không có mặt ở Rome mà thôi.

Irenaeus là giám mục tại Lyon (178-200) và là tác giả của Kinh Tin kính, đã viết sách khẳng định : Giám mục đầu tiên ở Rome không phải là Phêrô mà là Linus do Phaolồ bổ nhiệm. (Vicar of Christ, trang 15).

Sử gia nổi tiếng về lịch sử Kitô giáo nguyên thủy là Eusebius (260-340) viết sách nói về các giám mục ở Rome nhưng không hề nói tới Phêrô. Kinh Thánh Tân ước khẳng định cộng đồng giáo dân Kitô đầu tiên ở Rome do Phaolồ lập nên. Phaolồ là người học thức và có quốc tịch La Mã. Sách Tân ước gọi Phaolồ là “tông dồ của dân ngoại” và Phêrô là “tông đồ của dân Do thái”. Vậy nếu có “giáo hoàng” hay “giám mục” đầu tiên ở Rome thì người đó phải lả Phaolồ chứ không phải là Phêrô. Peter de Rosa khẳng định : Phêrô chẳng bao giớ làm giáo hoàng, Vatican đã gán cho ông ta cái chức vị nhiều thế kỷ sau khi ông ta đã qua đời. (Vicar of Christ, tr. 15).

Sử gia Hoa Kỳ Lloyd M. Graham, trong tác phẩm best-seller “Deceptions and Myths of the Bible”, đã dành ra chương 26 để vạch trần nền tảng bịp bợm (false foundation) của giáo hội Công giáo La Mã. Khởi đầu là những cố gắng của giáo hội muốn cho mọi tín đồ phải tin rằng: Giáo hội Công giáo được xây dựng trên nền tảng là thánh Phêrô do chính Chúa Jesus sắp đặt. Họ viện dẫn 3 câu trong Tân ước: Mattew 16:13, Luke 22:31 và John 21:15 để chứng minh Phêrô có thẩm quyền tối thượng (St. Peter’s Supremacy) cả ở trên trời lẫn dưới thế. Vậy giáo hoàng là người kế vị thánh Phêrô cũng có cái quyền tối thượng ấy (the papal supremacy).

Chính nhờ cái lối lý luận này mà giáo hoàng đã lấn lướt quyền hành của các vua chúa Công giáo ở Âu châu và nghiễm nhiên trở thành “Vua của các vua” trong nhiều thế kỷ.

Phúc âm John kể chuyện: Trong một bửa tiệc, Jesus hỏi Phêrô có yêu ông ta hơn những người khác không. Phêrô trả lời “Chúa biết con yêu Chúa mà”. Jesus nói “Vậy hãy nuôi nấng đoàn chiên của Ta” (Feed my lambs – John 21:15).

Đoạn Phúc âm quan trọng nhất thường được viện dẫn để chứng minh quyền lực của Phêrô, đó là Phúc âm của Mattew : “Con là Đá (Peter / Pierre). Trên viên đá này ta xây giáo hội. Các cánh cửa hỏa ngục không làm gì được. Ta sẽ cho con chìa khóa thiên đàng. Những điều gì con buộc ở thế gian thì cũng buộc ở trên trời và những gì con tha ở thế gian thì cũng được tha ở trên trời” (Matthew 16). Nhưng tiếp theo đó (Mathew 23) thì Jesus lại gọi Phêrô là Satan” “Hãy lùi lại đàng sau ta, thằng quỉ Satan, ngươi đã xúc phạm ta” (Get thee behind me, Satan, thou art an offence unto me). Như vậy, Jesus đã xây giáo hội trên nền tảng Phêrô tức trên nền tảng của quỉ Satan. Có lẽ nào chúng ta có thể tọi Công giáo là “Đạo thánh Đức Chúa Trời” trong khi chính Thánh Kinh của đạo này tự xác nhận là “Đạo của Quỉ”? Nếu Phêrô là giáo hoàng đầu tiên của đạo Công giáo thì chính hắn là thằng quỉ đầu tiên hiện hình làm giáo hoàng cai trị giáo hội.

Sử gia M. Graham nhấn mạnh đến tính cách vô nghĩa và vô cùng láo xược của câu chuyện về Phêrô trong Phúc âm Matthew nói trên. Ông viết : “Câu chuyện về Phêrô là hoàn toàn vô nghĩa - một con người có sinh có tử mà được trao phó quyền lực trên tòan thể nhân lọai cho đến muôn đời. Nếu có Thiên Chúa thì chỉ một mình Thiên Chúa có quyền đó mà htôi. Trong những vấn đề tôn giáo, những người Công giáo hẳn nhiên là những kẻ nhẹ dạ, nhưng dù nhẹ dạ tới đâu họ cũng không thể tin được là những bậc đại hiền triết trước Công nguyên như Pythagore, Plato, Socrates và Đức Phật Thích Ca lại phải tùy thuộc vào thẩm quyền tha tội hay buộc tội của một thằng thuyền chài Do thái ngu ngốc là Phêrô hay sao? Một Phêrô đầy thẩm quyền như vậy chẳng bao giờ có. Câu chuyện này chỉ là một thí dụ điển hình về sự thông thái bất lương của đạo Công giáo” (Peter’s story is veriest nonsense – one mortal man endowed with the power over all humanity for all eternity, we thought that only God has this authority. In things religious, Catholics are indeed credulous but can they be credulous as to believe that pro – Christian sages like Pythagoras, Plato, Socrates and Buddha require this ignorant Jewish fisherman to bind and loose their souls?... Such a man as Peter never existed. This is just a sample of Catholic scholarship with its capacity for intellectual dishonesty... Deceptions and Myths of the Bible, trang 439).

M. Graham hết luận : Chẳng phải Phêrô là nền tảng của giáo hội, sự ngu dốt là vùng đất tốt cho các tôn giáo phát triển và Kitô giáo không phải là một ngoại lệ. (Ignorance is the soil in which religions grows and Christianity is no exception – S.đ.d, trang 441).

Vatican là hang ổ của bọn lừa bịp chuyên nghiệp nhưng bọn chúng chỉ lừa bịp được những người ngu ngốc mà thôi. Hầu hết các tu sĩ Công giáo Việt Nam, kể cả những tu sĩ cao cấp như hồng y Nguyễn Văn Thuận, đều đã không đọc kỹ Thánh Kinh. Trong sách “Chúa Giêsu là ai? Giảng dạy những gì?” nơi trang 51, giáo sư Trần Chung Ngọc đã vạch rõ sự sai lầm của Hồng y Nguyễn Văn Thuận như sau: “Hồng y Thuận viết “Chúa Giê-su đã chọn Phêrô, người đã chối ngài...” là sai, chứng tỏ rằng ông đã được “giáo hội dạy rằng” rất kỹ và chưa từng đọc Thánh kinh vì Thánh kinh đã viết rõ Giêsu tin rằng ngày tận thế sắp tới ngay trong khi một số người cùng thời với Giêsu còn sống, vậy chọn Phêrô để làm gì? Rõ ràng chuyện Chúa chọn Phêrô là do giáo hội ngụy tạo để tự tạo vai trò kế thừa Phêrô và là đại diện Chúa trên trần của các giáo hoàng”.

Ngoài ra, giáo sư Trần Chung Ngọc còn trích dẫn nhiều đoạn Thánh kinh và nhiều nhận xét của các học giả danh tiếng trên thế giới để chứng minh chuyện Giêsu chọn Phêrô để lập giáo hội là một chuyện bịp bợm trắng trợn. Họ phịa ra chuyện này chẳng phải để vinh danh Phêrô mà chỉ dùng cái xác của Phêrô để làm bàn đạp tạo quyền lực trên những cái đầu thiếu óc của đám tín đồ Công giáo. (Xin đọc: “Chúa Giêsu là ai? Giảng dạy những gì?” TCN, Giao Điểm xuất bản Xuân 2002, trang 67-75).

Tiến trình hình thành quyền lực của giáo hoàng dưới chiêu bài “thừa kế Thánh Phêrô”:

Trong các công đồng Kitô nguyên thủy (Early Christian communities) như Lyon, Rome, Jerusalem, Antioch, Damascus, Alexandria .... đều chỉ có những tu sĩ cao cấp nhất gọi là giám mục (bishop). Trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên không có ai là người đứng đầu toàn thể các giám mục. người đầu tiên tự xưng là vị chỉ huy tất cả các giám mục là hoàng đế Constantine. Trong tác phẩm “Vicar of Christ”, Peter de Rosa viết : “Constantine gọi các giám mục là các anh em yêu quí và tư xưng là Giám mục của các giám mục”... Ngay cả giám mục ở Rome – chưa từng bao giờ được gọi là giáo hoàng trong nhiều thế kỷ - so với hoàng đế thì chẳng là gì cả. Về dân sự, giám mục ở Rome chỉ là giám mục hạng hai của Constantine” (Constantine called bishops his beloved brethen and styled homself ‘Bishop of bishops’... Even Bishop of Rome – not to be called the Pope for many centuries –was, in comparison a non-entity. In civic terms, he was, compared with Constantine, a second-class bishop – Vicar of Christ, Peter de Rosa, trang 43).

Như vậy, nếu coi giáo hoàng là người đứng đầu giáo hội và có thầm quyền trên hết các giám mục thì giáo hoàng đầu tiên chính là Đại đế Constantine. Trong thực tế, Constantine đã hành xử quyền hành của giáo hòang bằng cách triệu tập toàn thể giám mục đến họp các công đồng (councils) và chính hoàng đế chủ tọa các công đồng này. Trong cuốt thời gian trị vì từ năm 306 đến 337, Constantine đã triệu tập và chủ tọa 4 công đồng đầu tiên của lịch sử Kitô giáo.

Từ năm 324, Constantine bỏ thủ đô Rome để thiết lập thủ đô mới tại hải cảng Byzantine của Hy Lạp, thủ đô mới mang tên Constantinople, có nghĩa là thành phố của Constantine. Đế quốc La Mã từ đó đổi thành đế quốc Byzantine (Empire of Byzantine).

Rome trở thành một thành phố trống vắng quyền lực vì ở xa Constantinople, các giám mục ở Rome dần dần tạo ra cái gọi là Quyền lực của Giáo hoàng (Papacy). Tân Tự điển Công giáo định nghĩa quyền lực của giáo hoàng như sau: “Đó là một định chế nhằm đòi hỏi quyền cai trị toàn cầu về phương diện tinh thần” (Papacy = An institution in its claim to universality in the spiritual sphere of government – New Catholic Encyclopedia, Volume 14).

Người đầu tiên có tham vọng thiết lập ngôi vị Giáo hoàng với quyền lực bao trùm thế giới là Giám mục ở Rome tên Damasus. Peter de Rosa đã kể lại trường hợp của Damasus tiếm đoạt chức Giám mục thành Rome (Bishop of Rome) như sau:

Sau khi giám mục Liberius chết năm 366, hai nhân vật có uy thế tại Rome tranh nhau chức giám mục ở Rome là Ursimus và Damasus. Trong khi Ursimus và những người ủng hộ ông ta đang họp trong nhà thờ St. Mary Major thì Damasus thuê bọn du đãng ở Rome leo lên mái nhà thờ ném ngói xuống như mưa khiến cho 137 người của phe Ursimus chết tại chỗ. Trong khi đó thì những tên du đãng khác đứng chận tất cả các cửa nhà thờ không cho ai thoát chạy trong 3 ngày.

Nhờ vụ sát nhân ghê gớm này, Damasus khiến cho mọi người phải khiếp sợ và nghiễm nhiên trở thành giám mục tại Rome. (Xin đọc Vicar of Christ, trang 38). Damasus là người đầu tiên tự xưng là người đứng đầu giáo hội (Pontifex Maximus / The Head of Church – Babylon Mystery Religion, trang 72). Năm 382, Damasus là ngưới đầu tiên khai thác mấy câu trong Phúc âm về chuyện Jesus trao quyền cho Phêrô để dựa vào đó tự xưng mình là “người kế vị thánh Phêrô” có quyền cai trị giáo hội hoàn vũ. (The Rise of Christianity, Greenhaven press 1999, các trang 117-120).

Sau đây là tiến trình phát triển lý thuyết về thẩm quyền của giáo hoàng dựa trên tước “kế vị thánh Phêrô” (viết theo Eerdmans handbook of Christianity, Eerdman Publishing Co. tái bản 1987, các trang 192-195). Qua tác phẩm này chúng ta sẽ thấy Damasus là một nhân vật ghê gớm trong lịch sử giáo hội Kitô. Tác giả viết : “Damasus làm cho chuyện Phêrô thành một phần chủ yếu cho học thuyết về quyền lực của giáo hoàng. Ông ta là giáo hoàng đầu tiên liên tục gọi Rome là Tòa thánh của các Tông đồ và ông ta gọi các giám mục khác là “con” chứ không phải “anh em”. Damasus cai trị giáo hội 18 năm (366-384). [Sách đd, trang 192].

+ Giáo hoàng kế vị Damasus là Siricius (384-399): người đầu tiên gọi các văn kiện của y ký là Đạo luật hoặc Tông huấn (Decree) nhằm mục đích xác nhận thẩm quyền của giám mục ở Rome (cũng như thẩm quyền của hoàng đế) có hiệu lực đối với các cộng đồng Kitô trên hoàn vũ.

+ Giáo hoàng Leo the Great (440-461): Vào thế kỷ 5, giáo hội Kitô vẫn bao gồm các cộng đồng Kitô thuộc Tây Âu và các nước phía Đông của đế quốc Byzantine. Năm 451, Giáo hoàng Leo the Great triệu tập Công đồng Chalcedon nhằm mục đích yêu cầu công đồng chính thức công nhận học thuyết Chúa trao quyền cho Phêrô để thừa nhận giám mục ở Rome có thẩm quyền tối cao của giáo hoàng. Leo the Great nói với công đồng rằng: “Thánh Phêrô nói qua miệng của Giáo hoàng Leo” (St. peter has spoken through Leo).

Nhưng kết quả là các giám mục ở phía Đông đế quốc Byzantine bác bỏ chủ thuyết Phêrô (Petrine theory) và hoàn toàn phủ nhận thẩm quyền tuyệt đối của giáo hoàng. Họ công bố giáo hội Constantinople là “thủ đô Rome mới” (the new Rome) có thẩm quyền tương như giáo hội Rome cũ.

Công đồng Chalcedon năm 451 hoàn toàn tan vỡ và mở đầu cho sự chia rẽ về sau để thành hai giáo hội: Công giáo La Mã và Chính thống giáo!

+ Giáo hoàng Gelasius (492-496): Nhân danh là “Người kế vị của thánh Phêrô”, Giáo hoàng Gelasius gửi thư cho hoàng đế Byzantine với nội dung như sau: “Hoàng đế phải bảo vệ giáo hội nhưng phải phục tùng sự chỉ dẫn của giáo hoàng, người được hướng dẫn bởi Chúa và thánh Phêrô. Giáo hoàng không thể được xét đóan bởi bất cứ ai. Không một ai vào bất cứ thời gian và không vì một lý do nào tự đặt mình trên giáo hoàng vì ngài là người được Chúa Kitô đặt trên mọi người.” [xem sách đã dẫn, trang 193].

Vì thấy các giáo hoàng ở Rome càng ngày càng lộng hành, chẳng những về tôn giáo mà còn muốn lấn lướt cả về thế quyền của hoàng đế nên vào đầu thế kỷ 6, hoàng đế Justinian (527-565) mang quân từ Constantinople đến chiếm Rome để tái lập trật tư. Kể từ đó, các giáo hoàng đều phải tuân phục các hoàng đế La Mã đóng đô tại Constantinople và phải đối xứ với các thượng phụ (Partriarchs) của giáo hội Đông phương tại giáo đô Constantinople như những bậc bề trên.

Tác giả sách dẫn chiếu viết : “Thẩm quyền của giáo hoàng bị lệ thuộc vào Constantinople một thời gian rất lâu sau vài cái chết của hoàng đế Justinian và giáo hoàng La Mã mất luôn quyền cai trị nước Ý. Cho đến năm 741, các cuộc bầu chọn giáo hoàng ở Rome đều phải được Constantinople xác nhận” [xem sách đã dẫn, các trang 194-195].


II. Tước hiệu “Người đại diện Chúa Kitô”:

Tạp chí National Geographic tháng 12-1983 có một bài viết đặc biệt về đế quốc Byzantine (The Byzantine Empire) của Maria Nicolaidis Karanikolas [từ trang 714 đến 777]. Theo tác giả thì các hoàng đế Byzantine chủ trương dùng Kitô giáo để thống trị thế giới qua khẩu hiệu : “Một Thiên Chúa, một thế giới, một hoàng đế” (One God, one world, one emperor). Tác giả viết: “Hoàng đế được Thiên Chús ủy nhiệm để truyền bá đức tin chân chính và đặc các tín đồ dưới sự thống trị của ngài” (The emperor had the divine mandate to progate the true faith and bring them under his domination. Sách đd, trang 727). Để hiện thân hóa vai trò của Chúa Kitô, hàng năm vào ngày lễ Phục sinh và lễ Noel, các hoàng đế Byzantine đều mặc áo lộng lẫy và được 12 cận thần đóng vai 12 tông đồ tháp tùng trong một cuộc rước từ hoàng cung đến nhà thờ lớn Hagia Sophia. [ sách đd, trang 727].

Các hoàng đế Byzantine, từ Constantine đại đế đến vị hoàng đế cuối cùng trải qua 88 đời. Tất cả đều tự xưng là “Đại diện Chúa trên trần thế” (God’s Vicar on earth). Trong 88 vị hoàng đế “đại diện Chúa” có 13 vị đi tu, 30 vị bị chết bất đắc kỳ tử (bị đầu độc, bị đấm chết, bị treo cổ, bị đâm, bị phanh thây, bị chặt đầu và có vị bị chết đói). Tuy nhiên, đế quốc Byzantine đã tồn tại và phát triển trong 1.123 năm - từ năm 330 đến ngày 29 tháng 5 năm 1453 thì bị quân Hồi giáo Thổ nhĩ kỳ tiêu diệt.

Các hoàng đế Byzantine tự xưng là “Đại diện của Chúa” chỉ cốt để làm cảnh hoặc để đánh bóng thêm cho ngôi vị hoàng đế trong đế quốc Kitô giáo của họ. Trái lại, vì các giáo hoàng chỉ là chủ nhân của một lãnh thổ tí hon, không lớn hơn một sân golf, không có quân đội, không có căn bản thế quyền nên họ chỉ có một con đường duy nhất để tạo quyền lực bằng cách nhấn mạnh rằng: chỉ có giáo hoàng mới thật sự là Đại diện của Chúa Kitô và là người kế vị chân chính của thánh Phêrô.

Theo sách “Giáo hoàng Bách khoa Tự điển” (The Pope Encyclopedia, Matthew Buson, Crowntrade Paperbacks 1995, trang 148, Giáo hoàng Gelasius I (493-496) là người đầu tiên tự xưng là “Đại diện Chúa Kitô”). Giáo hoàng viết thư cho hoàng đế Byzantine là Anastasius với lập luận rằng: Chỉ có giáo hoàng mới là đại diện chân chính của Chúa Kitô về mặt tinh thần còn hoàng đế chỉ là đại diện về quyền thế tục mà thôi. Tinh thần phải được coi trọng hơn vật chất vì vật chất sẽ qua đi còn tinh thần là muôn đời. Do đó hoàng đế phải công nhận thẩm quyền của giáo hoàng cao hơn thẩm quyền thế tục của hoàng đế. Lập luận của Giáo hoàng Gelasius I mau chóng được loan truyền khắp Âu châu và được đa số trong dư luận ủng hộ vì lúc đó số tín đồ Kitô giáo ở Âu châu rất đông. Chính nhờ địa vị của giáo hoàng được củng cố và dần dần giáo hoàng trở thành người có quyền lực mạnh nhất cả về thần quyền lẫn thế quyền tại Âu châu.

Tám thế kỷ sau, giáo hoàng Innocent III (1198-1216) dành độc quyền tước hiệu “Đại diện Chúa Kitô” cho ngôi vị giáo hoàng với lập luận rằng: Giáo hoàng ở Rome là người trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, do đó chỉ giáo hoàng là đại diện duy nhất của Chúa Kitô trên thế gian này.

Chúa Jesus là Chúa của vũ trụ, giáo hoàng đại diện Chúa có quyền trên tất cả mọi người, kể cả các vua chúa thế gian. Với lập luận này, Innocent III tự cho mình có quyền kiểm sóat các vua chúa thế gian. Do đó, trong đầu thế kỷ 13, giáo hoàng Innocent III đã ra lệnh cho các vua chúa Âu châu thực hiện nhiều tội ác đẫm máu:

- Ra lệnh cho vua Pháp tàn sát những giáo dân theo phái dị giáo Albigensians ở Pháp.

- Ra lệnh cho vua Ý và Đức thực hiện cuộc Thập Tự chinh Thứ tư (The Fourth Crusade) kéo dài 3 năm, từ 1201 đến 1204, để trừng phạt đế quốc Byzantine và Chính thống giáo. Kết quả là các thập tự quân của giáo hoàng đã chiếm thủ phủ Constantinople và phần lớn lãnh thổ của đế quốc Byzantine. Vatican cai trị phần lãnh thổ này 57 năm (1204-1261).

- Triệu tập Công đồng Lateran năm 1215 để lập ra các khu tập trung người Do thái (ghettos), buộc mọi người Do thái và Hồi giáo khi bước chân ra khỏi nhà phải mặc những quần áo đặc biệt để phân biệt với những người Kitô giáo. Innocent III mở đầu cho chủ nghĩa diệt chủng Do thái của Công giáo La Mã.

- Ra lệnh cho dòng tu Dominicians tổ chức Tòa án Dị giáo (Inquisition). Kết quả là những tòa án tôn giáo này đã thiêu sống 10 triệu người qua nhiều thế kỷ.

Nhờ dựa vào vài tước hiệu bịp bợm, giáo hoàng Innocent III đã gây ra biết bao tội ác lớn lao đối với nhân loại: phát động chiến tranh thập tự, mở đầu chiến tranh diệt chủng Do thái, tàn sát những người muốn tách rời giáo hội và nhất là việc thiết lập hệ thống Tòa án tôn giáo giết hại hàng chục triệu người.

Innocent III không phải là giáo hoàng duy nhất gây ra nhiều tội ác ghê gớm như Boniface VIII (1294-1303) Urban V (1378-1389) Alexander VI (1492-1503) v.v... Theo các sự kiện lịch sử nêu trên thì hiển nhiên một điều là hai tước hiệu “Thừa kế thánh Phêrô” và “đại diện Chúa Kitô” đã tạo nên quyền lực của giáo hoàng. Nhưng xét cho cùng thì quyền lực củ giáo hoàng phát sinh từ đầu óc mê muội của tập thể tín đồ. Nói cách khác, chính sự ngu dốt của giáo dân Công giáo là nguồn gốc quyền lực của Vatican và các giáo hoàng.

Charlie Nguyễn



Thực chất đạo Công giáo và các đạo thờ Chúa:

Bảy cuộc chiến tranh chống Hồi Giáo của những đoàn quân Chữ Thập
Cuốn thánh kinh ô nhục của đạo Công Giáo
HỎA GIÁO BA TƯ LÀ TIỀN THÂN CỦA CÁC ĐẠO THỜ CHÚA
JESUS DƯỚI CÁI NHÌN CỦA DO THÁI GIÁO VÀ HỒI GIÁO
Những tước hiệu bịp bợm của Giáo Hoàng
Thiên chúa đang được động viên trong cuộc thánh chiến tại Trung Đông
Thập Giá và lưỡi gươm của đại đế Constantine
Truyền thống Abraham dưới ánh sáng khoa học khảo cổ
Vai trò của chính quyền trong mối tương quan Công giáo - Dân tộc
Việt Nam cần thưc hiện những biện pháp mạnh để đối phó với quốc nạn Công Giáo – Tin Lành.
ĐẠO HỒI LÀ ĐỨC TIN CỦA CHIẾN TRANH VÀ BẠO LỰC
Đạo Thiên Chúa chỉ là đạo thờ bò cải biến
ẢNH HƯỞNG THẦN HỌC DO THÁI VÀ KITÔ GIÁO TRONG NIỀM TIN ĐẠO HỒI

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét